Kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng Đảng và nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu

Thứ năm - 14/10/2021 23:27 1.343 0
Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đề ra mục tiêu tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng.
 
14 10 21 trung uong 4
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã dành nhiều thời gian để thảo luận, quyết định về công tác xây dựng Đảng. Ảnh: VOV 

Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, có bước đột phá trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu các cấp đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, đặc biệt coi trọng, thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện toàn diện Nghị quyết Trung ương 4 với quyết tâm chính trị cao, kịp thời đưa Nghị quyết vào cuộc sống. Nhìn chung, đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ được thực hiện quyết liệt, có chuyển biến rõ nét, ngày càng đi vào chiều sâu, kết hợp hài hoà giữa "xây" và "chống", đạt kết quả cao hơn, mạnh mẽ, kiên quyết hơn so với kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI.

Qua thực hiện Nghị quyết, nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên được nâng lên, nhận diện đầy đủ hơn những biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"; đoàn kết, thống nhất trong Đảng được tăng cường hơn; huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và sự vào cuộc của nhân dân tham gia đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ. Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết để lãnh đạo toàn diện, đồng bộ các mặt công tác xây dựng Đảng và chỉ đạo thực hiện nhất quán từ Trung ương đến cơ sở. Nhiều văn bản của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đã kịp thời thể chế hoá, cụ thể hoá Nghị quyết, nhất là về công tác cán bộ; kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xử lý nghiêm những tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên vi phạm, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. 

Việc tập trung lãnh đạo, chỉ đạo những nhiệm vụ cấp bách, cần làm ngay và những nhiệm vụ thường xuyên; đồng thời, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đổi mới công tác cán bộ; đẩy mạnh tự phê bình và phê bình; tăng cường kiểm tra, giám sát; kiểm soát quyền lực, ngăn chặn tình trạng chạy chức, chạy quyền; xử lý kỷ luật nhiều cán bộ, đảng viên vi phạm đã góp phần ngăn chặn tiêu cực, có tác dụng cảnh báo, răn đe, phòng ngừa và đã chỉ rõ nguyên nhân cơ bản của tham nhũng chính là từ tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Trong nhiệm kỳ XII, cấp uỷ, uỷ ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 87.210 đảng viên (tăng 18% so với nhiệm kỳ XI); trong đó, có 113 cán bộ diện Trung ương quản lý cả đương chức và nghỉ hưu. Các cấp ủy đã phát hiện, xử lý kỷ luật 25.104 đảng viên suy thoái hoặc có biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", chiếm 0,5% tổng số đảng viên toàn Đảng; trong đó, đảng viên suy thoái về đạo đức, lối sống chiếm tỉ lệ cao nhất (15.101 đảng viên, chiếm 60,1% tổng số đảng viên bị xử lý kỷ luật); tiếp đến là đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị (8.281 đảng viên, chiếm 33% tổng số đảng viên bị xử lý kỷ luật); tỉ lệ thấp nhất là đảng viên có biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" (1.722 đảng viên, chiếm 6,9% tổng số đảng viên bị xử lý kỷ luật). Những đột phá trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng tiếp tục được cán bộ, đảng viên, nhân dân đánh giá cao, đồng tình ủng hộ, được quốc tế ghi nhận. Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng có nhiều đổi mới, quyết tâm chính trị cao, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo những khâu yếu, việc khó với tinh thần không có vùng cấm, không có ngoại lệ; đã chỉ đạo xử lý 127 vụ án, 91 vụ việc tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm, bảo đảm nghiêm minh, đúng pháp luật.Trong nhiệm kỳ XII, có 5.205 cán bộ, đảng viên bị xử lý theo pháp luật (tăng 18,5% so với nhiệm kỳ XI); trong đó, đã xử lý nhiều cán bộ cao cấp, cả đương chức và nghỉ hưu, tướng lĩnh trong lực lượng vũ trang, có tác dụng cảnh báo, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy nhà nước, ngăn chặn "lợi ích nhóm", vi phạm pháp luật. 

Công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và đạo đức được chú trọng; việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ngày càng đi vào thực chất, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc trong đời sống xã hội. Việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được tăng cường. Phát huy có hiệu quả vai trò của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Kết quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhiệm kỳ XII, trong đó có kết quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đã khẳng định vai trò lãnh đạo, đường lối đúng đắn, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng; khắc phục nhiều mặt hạn chế, yếu kém nêu trong Nghị quyết; bước đầu ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ; niềm tin của nhân dân đối với Đảng được củng cố và tăng cường hơn so với trước đây; góp phần quan trọng đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, đối ngoại, nâng cao đời sống của nhân dân. 

Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số cấp uỷ tổ chức đảng, người đứng đầu chưa chỉ đạo quyết liệt, nhận thức chưa gắn với hành động, thực hiện chưa nghiêm nghị quyết của Đảng. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nhận thức chưa sâu sắc, đầy đủ, chưa thực sự đề cao trách nhiệm, chưa tự giác, gương mẫu thực hiện Nghị quyết. Không ít cán bộ, đảng viên, người đứng đầu còn lúng túng trong nhận diện các biểu hiện suy thoái, nhất là biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá". Một số cán bộ, đảng viên còn né tránh, mơ hồ, thậm chí có lời nói, việc làm biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá". Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của một số cấp uỷ, tổ chức đảng còn hạn chế; chưa cụ thể hoá Nghị quyết sát với thực tiễn của địa phương, cơ quan, đơn vị; hiệu quả tổ chức thực hiện chưa cao. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh của cán bộ, đảng viên gắn với thực hiện Nghị quyết chưa đồng bộ. Trách nhiệm nêu gương của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa tốt. Thực hiện tự phê bình và phê bình ở không ít nơi còn hình thức; tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm còn diễn ra ở nhiều nơi; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm cá nhân.

Chưa thể chế hoá, cụ thể hoá đầy đủ, kịp thời một số nội dung của Nghị quyết. Cơ chế kiểm soát quyền lực của người có chức, có quyền và chế tài xử lý vi phạm ở một số lĩnh vực chưa cụ thể, hiệu quả thực thi còn thấp, nhất là trong quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản, ngân sách, tài sản công, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước... Chính sách cải cách tiền lương chậm thực hiện theo lộ trình đề ra.

Các quy định về công tác cán bộ chưa thật đồng bộ. Chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung quy định về cho thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ làm việc kém hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém về phẩm chất đạo đức, tín nhiệm thấp không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm, hết tuổi công tác, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu. Trong bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn bố trí người nhà, người thân và một số trường hợp không đủ tiêu chuẩn, năng lực, uy tín, cá biệt có cả cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ, nhất là đánh giá và xử lý vấn đề chính trị hiện nay còn bất cập. Chất lượng sinh hoạt của không ít chi bộ còn hạn chế, hình thức. Công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên chưa được chú trọng đúng mức; việc quản lý đảng viên làm ăn xa, ở nước ngoài thiếu chặt chẽ; việc rà soát, sàng lọc, đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng chưa thường xuyên, thiếu cương quyết. 

Công tác kiểm tra, giám sát chưa đồng bộ ở các cấp; một số cấp uỷ tiến hành chưa thường xuyên, nhất là cấp cơ sở; phạm vi, đối tượng giám sát hẹp, hiệu quả cảnh báo, phòng ngừa vi phạm còn hạn chế. Một số cấp uỷ chưa chú trọng kiểm tra, giám sát chuyên đề thực hiện Nghị quyết. Việc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm, xử lý một số trường hợp suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" chưa nghiêm. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực ở một số địa phương, bộ, ngành chưa chuyển biến rõ nét; chưa quản lý chặt chẽ việc kê khai, công khai, giải trình nguồn gốc tài sản, thu nhập tăng thêm của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý.

Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Chưa phát huy đầy đủ sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị có mặt chậm đổi mới. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên. Việc quản lý báo chí, xuất bản, nhất là Internet, mạng xã hội còn lúng túng, thiếu chặt chẽ.

Việc phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền chưa thường xuyên; việc giám sát tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên một số nơi còn thiếu quan tâm. Một số địa phương chưa chỉ đạo quyết liệt để giải quyết các điểm "nóng", vụ việc phức tạp gây bức xúc trong nhân dân. 

Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan, nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ quan: (1) Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu là một bộ phận cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc, toàn diện về tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; thiếu tu dưỡng, rèn luyện, lập trường tư tưởng không vững vàng; một số ít sa vào chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất, thực dụng, tham vọng quyền lực, coi thường kỷ luật, kỷ cương. (2) Một số cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu chưa đánh giá đúng, chưa nhận diện đầy đủ mức độ suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" tại địa phương, cơ quan, đơn vị do mình lãnh đạo, quản lý; chưa thực sự gương mẫu trong thực hiện Nghị quyết, chưa có biện pháp đủ mạnh để làm chuyển biến thực chất tình hình ở địa phương, cơ quan, đơn vị, còn thụ động, né tránh, trông chờ vào sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên. (3) Một số cấp uỷ, tổ chức đảng chưa thực hiện nghiêm các nguyên tắc, quy định của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình; có nơi còn mất đoàn kết nội bộ, có biểu hiện cục bộ, "lợi ích nhóm". Không ít cán bộ, đảng viên thờ ơ, vô cảm, chưa thẳng thắn đấu tranh với những biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ.

Từ thực tiễn thực hiện Nghị quyết, rút ra 5 bài học kinh nghiệm sâu sắc: (1) Vai trò lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên, quyết liệt, kiên quyết, kiên trì của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp uỷ, tổ chức đảng, nhất là đồng chí Tổng Bí thư và người đứng đầu các cấp; sự đoàn kết thống nhất trong toàn Đảng có ý nghĩa quyết định để thực hiện thắng lợi Nghị quyết. (2) Chủ trương đúng đắn của Nghị quyết sẽ tạo được sự thống nhất về nhận thức, hành động trong toàn Đảng, hệ thống chính trị và nhân dân; đồng thời, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, cung cấp kịp thời cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. (3) Phải thấm nhuần sâu sắc quan điểm công tác cán bộ là nhiệm vụ "then chốt" của công tác xây dựng Đảng, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. (4) Xác định đúng trọng tâm, trọng điểm sẽ tạo đột phá trong thực hiện Nghị quyết; kết hợp hài hoà giữa "xây" và "chống", kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp suy thoái để tạo sự chuyển biến rõ nét trong thực hiện Nghị quyết. (5) Phải thực sự phát huy dân chủ, dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Thời gian tới, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau: 

1. Mục tiêu 

Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự vững vàng về chính trị, tư tưởng; thống nhất cao về ý chí, hành động; trong sạch về đạo đức, lối sống; chặt chẽ về tổ chức; gắn bó mật thiết với nhân dân, đủ sức lãnh đạo đưa đất nước ta vượt qua mọi khó khăn, ngày càng phát triển. Toàn Đảng và hệ thống chính trị kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá", dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. 

2. Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu 

Phải tiến hành đồng bộ và quyết liệt hơn nữa 4 nhóm nhiệm vụ, giải pháp của Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII đã đề ra; đồng thời bổ sung nhấn mạnh thêm 2 nhóm nhiệm vụ, giải pháp là: Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý nghiêm cán bộ sai phạm. Nội dung các nhiệm vụ, giải pháp trên cần được cập nhật, bổ sung đầy đủ, sâu sắc hơn nữa những vấn đề mới mà thực tiễn đặt ra, gắn với Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh, nâng cao chất lượng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới như sau: 

(1) Xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải gắn với xây dựng hệ thống chính trị, phạm vi thực hiện không chỉ đối với tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên mà còn là cả các cơ quan nhà nước và đội ngũ công chức, viên chức Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và thành viên, đoàn viên, hội viên của các tổ chức này.

(2) Nhận diện rõ hơn, đầy đủ hơn và có hệ thống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ phù hợp với tình hình, bối cảnh mới.

(3) Bảo đảm hài hoà giữa "xây" và "chống"; xây là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; chống là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách.

(4) Không chỉ ngăn chặn, đẩy lùi mà phải chủ động tiến công, đấu tranh, kiên quyết xử lý nghiêm tổ chức, cá nhân có biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá".

(5) Khẳng định phòng, chống tham nhũng gắn liền với phòng, chống tiêu cực với nội dung chính là phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

(6) Tăng cường trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu; kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, nêu cao ý thức tự giác, tu dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên; đề cao tinh thần tự phê bình và phê bình.

Tập trung thực hiện các nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau đây: 

2.1. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng, tự phê bình và phê bình

Mở đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng để quán triệt sâu sắc Kết luận của Ban Chấp hành Trung ương về tiếp tục đẩy mạnh, tạo bước đột phá mới trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, khẳng định trách nhiệm, quyết tâm mới của từng cấp uỷ, tổ chức đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. 

Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn công cuộc đổi mới của Đảng để tiếp tục vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị; quy định cụ thể tiêu chuẩn, đối tượng và phân cấp đào tạo lý luận chính trị. Thường xuyên cập nhật kiến thức mới về lý luận, kỹ năng lãnh đạo, quản lý cho đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ cấp chiến lược, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp.

Tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức và hành động trong việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" gắn với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4; chú trọng việc nêu gương và "làm theo" Bác bằng việc làm cụ thể, thiết thực, phù hợp chức trách, nhiệm vụ được giao, góp phần tạo sự lan toả mạnh mẽ trong xã hội.

Tăng cường trách nhiệm và sự chủ động của Ban Chỉ đạo bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch các cấp, các cơ quan chức năng, báo chí, cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác trực diện, sắc bén, hiệu quả với các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động, phần tử bất mãn, cơ hội chính trị. Thường xuyên định hướng hoạt động của các cơ quan báo chí, xuất bản; quản lý chặt chẽ thông tin trên Internet, mạng xã hội; xử lý nghiêm đối với cơ quan báo chí, phóng viên đăng tải thông tin chưa được xác minh, kiểm chứng, không có cơ sở, căn cứ, gây ảnh hưởng không tốt đến dư luận xã hội. 

Tiếp tục đổi mới công tác giáo dục chính trị, tư tưởng của cấp uỷ, chi bộ đối với cán bộ, đảng viên. Nâng cao sức chiến đấu, chất lượng sinh hoạt chi bộ, đảng bộ, sinh hoạt cấp uỷ, chất lượng kiểm điểm và gợi ý kiểm điểm, nhất là đối với cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá". Chủ động nắm chắc tình hình, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời các vấn đề tư tưởng trong Đảng và xã hội. 

Nâng cao nhận thức, trách nhiệm, tự giác hành động của người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý và mỗi cán bộ, đảng viên trong việc nhận diện các biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá". Nghiên cứu, hướng dẫn cách thức nhận diện các biểu hiện, biện pháp phòng ngừa, khắc phục, đẩy lùi tình trạng suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ phù hợp với từng đối tượng đảng viên.

Tập trung xây dựng Đảng về đạo đức; nghiên cứu, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức sâu sắc hơn trách nhiệm của mình trước Đảng, trước nhân dân; không bị cám dỗ bởi quyền lực, vật chất; giữ gìn lối sống trong sáng, lành mạnh, đặt lợi ích chung, lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân.

Tăng cường trách nhiệm nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu và cán bộ, đảng viên, yêu cầu cán bộ chức vụ càng cao phải càng gương mẫu. Mỗi cán bộ, đảng viên phải nêu cao ý thức tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, tinh thần phê bình và tự phê bình trong nội bộ, có biện pháp để phòng ngừa và khắc phục khuyết điểm, hạn chế; kiên quyết khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, "dĩ hoà, vi quý", chạy theo thành tích, đơn giản, hình thức trong kiểm điểm tự phê bình và phê bình. 

Kịp thời phát hiện, biểu dương, khen thưởng, nhân rộng những mô hình, điển hình tốt, có hành động nêu gương, tạo sức lan toả trong Đảng và xã hội. Phát huy vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan báo chí về thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. 

2.2. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu

Thực hiện nghiêm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, công tác cán bộ phải thực sự là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụđáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu. Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, chất lượng cao, cơ cấu, số lượng hợp lý, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế gắn với vị trí việc làm, chức danh lãnh đạo theo các nhóm: Cán bộ chiến lược; cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Trung ương, địa phương; cán bộ lãnh đạo, chỉ huy quân đội, công an; cán bộ khoa học, chuyên gia; cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước; cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ dân tộc thiểu số.

Thực hiện nghiêm nguyên tắc của Đảng trong công tác cán bộ, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; kết hợp chặt chẽ trách nhiệm của người đứng đầu với cấp uỷ, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo của cơ quan, đơn vị; bảo đảm đúng quy trình, quy định, công tâm, khách quan, chặt chẽ, thận trọng trong từng khâu của công tác cán bộ, không để lọt người không đủ tiêu chuẩn, điều kiện, có biểu hiện cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; kịp thời thẩm tra, xác minh, kết luận tiêu chuẩn chính trị của cán bộ. Kiên quyết phòng, chống biểu hiện bè phái, "lợi ích nhóm" và lợi dụng Internet, mạng xã hội để xuyên tạc sự thật, kích động, gây rối, chia rẽ làm mất đoàn kết nội bộ.

Thực hiện chủ trương thí điểm một số mô hình: Người đứng đầu giới thiệu với cấp có thẩm quyền để bầu cử, bổ nhiệm cấp phó; bí thư cấp uỷ giới thiệu để bầu uỷ viên thường vụ và chịu trách nhiệm về việc giới thiệu; giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm, miễn nhiệm đối với cấp trưởng cấp dưới trực tiếp và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. 

Đổi mới cơ chế đánh giá cán bộ bảo đảm xuyên suốt, liên tục, đa chiều, có tiêu chí, thông qua sản phẩm cụ thể, chất lượng, hiệu quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Gắn đánh giá cá nhân với tập thể, kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị. Kịp thời miễn nhiệm, cho từ chức, thay thế cán bộ năng lực hạn chế, uy tín thấp, sai phạm không chờ hết nhiệm kỳ, hết thời hạn bổ nhiệm, hết tuổi công tác.

Xây dựng cơ chế phát hiện, lựa chọn, trọng dụng nhân tài, cán bộ có năng lực nổi trội, cán bộ trẻ để đào tạo, bổ sung cán bộ giỏi cho Đảng. Đổi mới cơ chế, chính sách tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, rèn luyện, toàn tâm, toàn ý vì công việc, nhất là chính sách tiền lương, khen thưởng, đào tạo, tuyển dụng, bổ nhiệm…; cơ chế, chính sách đối với một số chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan có vị trí trọng yếu của hệ thống chính trị.

Đổi mới công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030 và nhiệm kỳ tiếp theo. Tiếp tục đổi mới công tác luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, bảo đảm sự cân đối, hài hoà giữa luân chuyển cán bộ với phát triển nguồn cán bộ tại chỗ; khắc phục tình trạng khép kín trong công tác cán bộ. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương bố trí chức danh lãnh đạo chủ chốt không phải là người địa phương. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền về công tác cán bộ; đồng thời, thường xuyên kiểm tra, giám sát, chấn chỉnh, xử lý kịp thời sai phạm trong công tác cán bộ.

2.3. Tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách 

Tập trung sửa đổi, hoàn thiện các cơ chế: Công khai, minh bạch tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục, hồ sơ nhân sự; đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử, miễn nhiệm, từ chức; phân cấp quản lý cán bộ, có cơ chế quản lý phù hợp đối với cán bộ, đảng viên làm việc trong lĩnh vực đặc thù, cán bộ, đảng viên đi nghiên cứu, học tập, lao động, công tác ở nước ngoài; công tác bảo vệ chính trị nội bộ; kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền. Kịp thời ban hành văn bản pháp luật phù hợp, đồng bộ nhằm thể chế chủ trương của Đảng về công tác cán bộ và quản lý cán bộ.

Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách thực hiện Nghị quyết Trung ương 4; tập trung kiểm tra, giám sát, kiểm soát việc thực thi quyền lực của người có chức có quyền; phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm tập thể, cá nhân trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Kiên quyết sàng lọc, xử lý cán bộ, đảng viên làm việc kém hiệu quả, không hoàn thành nhiệm vụ, thiếu tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức; có chế tài xử lý nghiêm hành vi vi phạm.

Nghiên cứu, ban hành các cơ chế, quy định về: Thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xử lý tập thể, cá nhân suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có lời nói, việc làm biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"; cơ chế bảo vệ, khuyến khích nhân dân phản ánh, tố giác và tích cực đấu tranh phòng, chống suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong cán bộ, đảng viên; thăm dò dư luận xã hội và đánh giá sự hài lòng của người dân; đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng; thẩm quyền tạm đình chỉ công tác của người đứng đầu đối với cán bộ cấp dưới để kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm; quản lý việc lập và sử dụng trang thông tin điện tử cá nhân của cán bộ, đảng viên trên Internet, mạng xã hội. 

Xây dựng và thực hiện có hiệu quả các chính sách tạo điều kiện cho cán bộ thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao có hiệu quả, toàn tâm, toàn ý với công việc: Chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung; cải cách chính sách tiền lương, khen thưởng gắn với vị trí việc làm, chức danh, chức vụ, hiệu quả công tác, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và nguồn lực của đất nước. Đồng thời, có chính sách trọng dụng, phát triển vào vị trí lãnh đạo, quản lý đối với cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội; khuyến khích cán bộ làm việc trong lĩnh vực, địa bàn đặc thù, phức tạp, trọng yếu.

Tiếp tục rà soát, bổ sung và hoàn thiện pháp luật về các lĩnh vực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, nhất là các quy định về kiểm soát quyền lực, trách nhiệm giải trình trong quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản, ngân sách, tài sản công, vốn đầu tư công, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước… nhằm phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. 

2.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng 

Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các quy định, quy chế nhằm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở những lĩnh vực, địa bàn, vị trí công tác dễ xảy ra vi phạm, lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, tiêu cực; tập trung giải quyết dứt điểm những vụ việc tồn đọng, kéo dài, nổi cộm, bức xúc, dư luận cán bộ, đảng viên và nhân dân quan tâm. 

Tăng cường giám sát chuyên đề thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 đối với các tổ chức, cá nhân có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; có lời nói, việc làm biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá". Chú trọng kiểm tra, giám sát việc tự phê bình và phê bình, thực hiện trách nhiệm nêu gương và việc khắc phục khuyết điểm của tập thể, cá nhân.

Kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên có động cơ sai trái, tư tưởng cục bộ, bè phái, "lợi ích nhóm", suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá", vi phạm những điều đảng viên không được làm ngay tại cơ sở, chi bộ; không để sự việc kéo dài, né tránh, "đùn đẩy" lên cấp trên. 

2.5. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xử lý nghiêm cán bộ vi phạm 

Nâng cao nhận thức, trách nhiệm cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên đối với công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; chú trọng quán triệt nội dung tiêu cực được bổ sung trong công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Tiếp tục rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực trong công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử.

Kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ và hiệu quả hơn. Đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, xử lý tham nhũng, tiêu cực tại địa phương, cơ sở; xử lý nghiêm minh, kịp thời, không có vùng cấm, không có ngoại lệ những hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực và bao che, dung túng, tiếp tay cho tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.

Đẩy nhanh tiến độ xác minh, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án, xử lý các vụ việc liên quan đến tham nhũng kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm. Công tác thanh tra, kiểm toán phải tập trung vào những lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực; kịp thời chuyển cơ quan điều tra xử lý các hành vi có dấu hiệu tội phạm. Chú trọng phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực ngay trong cơ quan phòng, chống tham nhũng; ngăn chặn, xử lý nghiêm tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp trong quá trình giải quyết công việc. 

Phát huy vai trò của cơ quan báo chí trong đấu tranh phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá". Nêu cao trách nhiệm người đứng đầu trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; thực hiện nghiêm các quy định công khai, minh bạch về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, định giá đất, đấu thầu lựa chọn nhà thầu, kê khai, xác minh tài sản, quản lý vốn đầu tư công, tài sản công… Uỷ ban kiểm tra các cấp thường xuyên kiểm soát tài sản, thu nhập của cán bộ theo phân cấp, thẩm quyền quản lý; kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý khuyết điểm, vi phạm. 

2.6. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân

Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp; giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; phát huy vai trò giám sát của nhân dân; góp phần đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. 

Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận của hệ thống chính trị, nhất là công tác dân vận chính quyền các cấp. Tạo bước chuyển biến thực chất hơn trong giám sát của nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện, đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên. Tiếp tục rà soát, bổ sung cơ chế "Dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh". Trong bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử, khi có dư luận của nhân dân thì cấp uỷ đảng phải lắng nghe, xem xét, xử lý. Có cơ chế, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trực tiếp phản ánh, góp ý với cấp uỷ đảng về công tác cán bộ. 

Người đứng đầu cấp uỷ, chính quyền các cấp phải thực hiện nghiêm quy định tiếp dân của Đảng, Nhà nước, kịp thời chỉ đạo giải quyết các vấn đề nhân dân phản ánh, bức xúc liên quan đến cán bộ, đảng viên. Quy định rõ trách nhiệm của người đứng đầu trong việc chỉ đạo giải quyết, xử lý cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" do nhân dân phát hiện, phản ánh. Tập trung chỉ đạo xử lý dứt điểm đơn, thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân, các vụ việc nghiêm trọng, gây bức xúc trong xã hội, góp phần củng cố và nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chính quyền.

3. Về quy định mới những điều đảng viên không được làm

Qua 10 năm thực hiện Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 01/11/2011 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XI về những điều đảng viên không được làm đã góp phần khắc phục kịp thời những hạn chế, yếu kém trong thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, Hiến pháp và chính sách, pháp luật của Nhà nước; đáp ứng yêu cầu quản lý, giáo dục, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo đức, lối sống, trách nhiệm nêu gương của đảng viên; chấn chỉnh tác phong, lề lối làm việc; ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá". Quy định là căn cứ, cơ sở quan trọng để kiểm tra, giám sát, xem xét, xử lý các vi phạm của cán bộ, đảng viên vi phạm, tạo sự chuyển biến về nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên trong thời gian qua. 

Ban Chấp hành Trung ương Đảng thống nhất cần thiết phải ban hành Quy định mới thay thế Quy định 47 của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII, XIII của Đảng; bảo đảm đồng bộ, thống nhất với các nghị quyết, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đã ban hành trong thời gian qua, nhất là các nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, XII, Kết luận của Trung ương khoá XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; cập nhật những vấn đề phát sinh mới đặt ra trong thực tiễn tổ chức thực hiện, đặc biệt là biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tiêu cực của cán bộ, đảng viên. 

Dự thảo Quy định mới giữ nguyên 19 Điều như Quy định trước, kế thừa cơ bản những nội dung còn phù hợp, bổ sung một số nội dung mới cho phù hợp. Nội dung sửa đổi, bổ sung là những vấn đề cốt lõi quan trọng về rèn luyện tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII, XIII của Đảng, của Hiến pháp năm 2013; những nội dung mới trong các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đã ban hành trong thời gian qua, nhất là các nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, XII, Kết luận của Trung ương khoá XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Quy định có tính pháp quy cao, nội dung từng quy định phải hết sức cụ thể, chặt chẽ, chính xác, rõ nội hàm, rõ hành vi, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, giám sát và xử lý khi đảng viên vi phạm.
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Kiên Giang

Nguồn tin: Cổng thông tin điện tử Đảng bộ tỉnh​ Kiên Giang

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thông tin cần biết
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập29
  • Hôm nay6,548
  • Tháng hiện tại84,229
  • Tổng lượt truy cập6,013,918
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây