Sự phát triển lý luận của Đảng về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội

Thứ tư - 04/12/2019 20:37 1.301 0
Sự phát triển lý luận của Đảng về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn coi trọng gắn kết phát triển kinh tế với xây dựng văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Sự phát triển lý luận của Đảng về xây dựng văn hoá trong chính trị và kinh tế

Vấn đề nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra ngay từ những ngày đầu khi mới giành được độc lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm yêu cầu phải gắn kết phát triển kinh tế và phát triển văn hóa với bảo đảm công bằng xã hội, xem đó không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực cho tăng trưởng kinh tế. Người chỉ rõ: “Trong công tác lưu thông phân phối, có hai điều quan trọng phải luôn nhớ: Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”[1].

Quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn coi trọng gắn kết phát triển kinh tế với xây dựng văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Đại hội VI của Đảng đã nhấn mạnh: “Cần thể hiện đầy đủ trong thực tế quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự thống nhất giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, khắc phục thái độ coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”[2].

Bổ sung và phát triển quan điểm Đại hội VI của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII đã khẳng định: “Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”[3]. Đồng thời, Cương lĩnh cũng nêu rõ: “Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội”[4].

Như vậy, nếu Đại hội VI của Đảng đặt ra những vấn đề cơ bản về phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, thì Nghị quyết Đại hội VII của Đảng đã bổ sung, phát triển và cụ thể hóa hơn mối quan hệ này. Để bảo đảm tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã nhấn mạnh đến các chính sách bình đẳng nam nữ; chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc; thực hiện nhất quán chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân; phát huy vai trò văn hóa nghệ thuật trong nuôi dưỡng, nâng cao tâm hồn Việt Nam; bảo đảm quyền được thông tin, quyền được tự do sáng tạo của công dân.

Quá trình thực hiện Cương lĩnh (năm 1991) là quá trình tiếp tục phát triển tư duy lý luận về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Hội nghị Trung ương 4 khóa VII đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng về các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, y tế, chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình,... Đây là những nghị quyết tập trung vào chiến lược xây dựng con người, phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định tư tưởng chỉ đạo quan trọng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa là: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững. Động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích lũy cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, phát triển văn hóa, giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”[5]. 

Một trong những tư tưởng chỉ đạo xây dựng và thực hiện kế hoạch 5 năm 1986 - 2000 là “Kết hợp hài hòa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa - xã hội, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc nhằm tạo được chuyển biến rõ nét về thực hiên công bằng và tiến bộ xã hội”[6]. 

Điểm mới trong tư duy lý luận của Đảng tại Đại hội VIII là Đảng ta đã xây dựng Chương trình giải quyết các vấn đề văn hóa - xã hội và nêu rõ mục tiêu: “Giải quyết việc làm, phát triển toàn diện các mặt hoạt động về văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, y tế, dân số, kế hoạch hoá gia đình và các mặt xã hội khác nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất, tinh thần và thể lực của dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và hội nhập vào cộng đồng quốc tế. Kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng, tiến bộ xã hội, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc, đẩy lùi tiêu cực, bất công và các tệ nạn xã hội”[7].

 Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII tiếp tục khẳng định: “Chǎm lo vǎn hóa là chǎm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu vǎn hóa, vì xã hội công bằng, vǎn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố vǎn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp, kỷ cương,... biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển”[8].

Đại hội IX của Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển những quan điểm trước đó và khẳng định: “Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tao động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khách nhân dân làm giàu hợp pháp”[9] và “Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”[10].

Đại hội X của Đảng đã thể hiện sâu sắc hơn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, coi đây là một trong những nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội X chỉ rõ: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục,... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”[11]. 

Đặc biệt, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại X đã dành riêng một phần để nói rõ những nội dung cơ bản của nhiệm vụ: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển”. Đại hội nhấn mạnh: “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững hơn cho phát triển kinh tế - xã hội. Tập trung giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc”[12]. Điều này thể hiện tư duy lý luận của Đảng ta về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngày càng đầy đủ và cụ thể hơn.

Sau 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) và từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Đại hội thứ XI của Đảng tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán: “… phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó khăn, suy giảm; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[13]. 

Đặc biệt, Đại hội đã thông qua một số nội dung về tiến bộ xã hội và phát triển văn hóa như những chỉ tiêu chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020: “…chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thế giới;… tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi;… lao động qua đào tạo đạt trên 70%;… tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân 1,5 - 2%/năm… Đến năm 2020, có một số lĩnh vực khoa học và công nghệ, giáo dục, y tế đạt trình độ tiên tiến, hiện đại”[14].

Như vậy, có thể thấy, quan điểm nhất quán của Đảng trong công cuộc đổi mới toàn diện đất nước là xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của quá trình phát triển kinh tế, xã hội và cũng là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hóa gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật,… và văn hóa trở thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế - xã hội và con người. 

Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI tiếp tục chỉ rõ: “Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc trưng cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”[15]. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI vừa thể hiện sự nối tiếp mục tiêu về văn hóa đã được đặt ra ở các nhiệm kỳ đại hội trước đây, vừa là sự kế thừa các giá trị truyền thống tốt đẹp và bền vững trong xây dựng nhân cách của con người Việt Nam trong giai đoạn đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo hướng phát triển nhanh và bền vững.

Có thể khẳng định, Đảng ta luôn luôn chú ý đến mối quan hệ này và nhận thức ngày càng đúng đắn, đầy đủ. Trên cơ sở nhận thức rõ tính mâu thuẫn và thống nhất trong quá trình tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, Đảng ta đã từng bước đề ra những quan điểm, chủ trương và giải pháp kịp thời, đúng đắn để xử lý mối quan hệ này một cách hợp lý. Từ sự quan tâm đến bề rộng của mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, Đảng ta đã dần dần tập trung vào chiều sâu, vào chất lượng của mối quan hệ này. Từ sự quan tâm ở cấp vĩ mô, Đảng ta đã nhấn mạnh tới sự chuyển động ở cấp vi mô, kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ngay trong từng lĩnh vực, từng địa phương, thực hiện tiến bộ ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển./.
 
PGS.TS. Phan Trọng Hào
(Hội đồng Lý luận Trung ương)

________________________________________

[1]Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 244.,
[2]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1986, tr. 86.
[3]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.  139.
[4]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 51, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr. 139.
[5Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 85.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 204 – 205.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 203
[8]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 55.
[9]Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 104.
[10]Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 162.
[11]Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 77 -78.
[12]Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 101.
[13]Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 316.
[14]Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 104 - 105.
[15]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr. 48 - 49.

Nguồn tin: Ban Tuyên giáo Trung ương

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Thông tin cần biết
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập38
  • Máy chủ tìm kiếm3
  • Khách viếng thăm35
  • Hôm nay8,966
  • Tháng hiện tại82,915
  • Tổng lượt truy cập6,212,415
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây