Suốt 50 năm qua, ngành Tuyên giáo đã đóng vai trò là cầu nối tư tưởng chính trị, tình cảm cách mạng, làm cho những giá trị cốt lõi trong Di chúc cùng với nhiều trước tác của Người thấm sâu vào lý trí và tình cảm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc...
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản thiêng liêng, vô giá đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, là tầm nhìn chiến lược của Người về con đường đi tới của cách mạng Việt Nam, thể hiện những giá trị cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh trong giải quyết các vấn đề có tính thời đại của đất nước và quốc tế. Tại lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 9-9-1969, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã thay mặt Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đọc Điếu văn, thể hiện sự tiếc thương vô hạn, ghi nhớ công lao trời biển của Người và thề phấn đấu thực hiện năm nội dung định hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Thực hiện Di chúc bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nửa thế kỷ qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nguyện một lòng tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng mà Người đã chỉ ra, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, không ngừng nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, thách thức và gian khổ, hy sinh, từng bước thực hiện thành công Di chúc của Người. Trong sự nỗ lực chung của toàn xã hội, suốt 50 năm qua, ngành Tuyên giáo đã đóng vai trò là cầu nối tư tưởng chính trị, tình cảm cách mạng, làm cho những giá trị cốt lõi trong Di chúc cùng với nhiều trước tác của Người thấm sâu vào lý trí và tình cảm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác theo di nguyện của Người.
I. NHỮNG CỐNG HẾN CỦA NGÀNH TUYÊN GIÁO TRONG 50 NĂM THỰC HIỆN DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
1. Thấm sâu Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngành Tuyên giáo đã triển khai đồng bộ, toàn diện công tác tư tưởng chính trị, tuyên truyền, thuyết phục, giáo dục lý tưởng cách mạng, tăng cường sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo động lực tinh thần thi đua yêu nước, thực hiện mục tiêu cao cả “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc
Tinh thần giành và giữ vững độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất Tổ quốc là hạt nhân trong toàn bộ giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và trong Di chúc nói riêng, được hình thành trên cơ sở truyền thống yêu nước, thương nòi, lòng tự tôn dân tộc. Mở đầu Di chúc, Người đã khẳng định: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn.
Đó là một điều chắc chắn”(1).
Để góp phần quan trọng vào việc hiện thực hóa niềm tin son sắt ấy, ngay từ cuối năm 1969, đầu năm 1970, ngành Tuyên giáo đã có nhiều cách làm sáng tạo, đưa mặt trận tư tưởng của Đảng đi trước một bước, sát với tình hình, cục diện cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân biến đau thương thành hành động cách mạng, tiếp tục chủ động tiến công thực hiện bằng được nguyện ước của Người: giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Chỉ sau quốc tang 20 ngày, ngày 29-9-1969, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 173-CT/TW về đợt sinh hoạt chính trị “Học tập và làm theo Di chúc của Hồ Chủ tịch”.
Theo đó, nhiều cuộc vận động, nhiều phong trào thi đua yêu nước với những tên gọi khác nhau, gắn với từng địa phương, cơ quan, đơn vị (điển hình là các cuộc vận động thi đua lao động sản xuất; phát huy dân chủ; tăng cường chế độ làm chủ tập thể của quần chúng xã viên ở nông thôn; nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh ngày 19-51970 – 19-5-1971), qua đó tạo bầu không khí mới, củng cố niềm tin, kêu gọi, động viên Nhân dân cả nước đánh thắng chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của đế quốc Mỹ.
Trọng tâm của công tác tuyên truyền, giáo dục khi đó là nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phát hiện, tôn vinh những tấm gương chiến đấu dũng cảm, kêu gọi Nhân dân cả nước tăng cường đoàn kết, đề cao cảnh giác, củng cố những thắng lợi đã giành được, đồng thời chủ động tuyên truyền, quán triệt các nghị quyết của Trung ương trong các tầng lớp nhân dân về quyết tâm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tích cực chi viện cho cách mạng miền Nam.
Ở miền Bắc, công tác tuyên truyền, cổ động tập trung vào mục tiêu cổ vũ khí thế thi đua yêu nước thông qua các khẩu hiệu có sức lay động lòng người, như: “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, “Chắc tay súng, vững tay cày”, “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “Tiếng hát át tiếng bom”; các phong trào “Ba sẵn sàng” trong thanh niên, “Ba đảm đang” trong phụ nữ, “Ba quyết tâm” trong trí thức... đã được báo chí cổ vũ kịp thời, phát huy tinh thần yêu nước, thúc đẩy cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đi tới những thắng lợi to lớn.
Ở miền Nam, công tác tuyên truyền, cổ động tập trung vào khích lệ ý chí tiến công cách mạng không ngừng, kiên quyết đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn thâm độc của đế quốc Mỹ và tay sai ngụy quyền, kêu gọi, thức tỉnh những người lầm đường lạc lối quay trở lại với con đường chính nghĩa.
Trên phương diện tuyên truyền đối ngoại, ngành Tuyên giáo đã đưa được chủ trương, đường lối kháng chiến đúng đắn của Đảng ta, khát vọng hòa bình, thống nhất của dân tộc Việt Nam đến với những người có lương tri, yêu chuộng hòa bình thế giới, nên đã lay động hàng triệu người dân nước Mỹ và nhiều nước trên khắp năm châu ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của đồng bào Việt Nam, tạo công luận mạnh mẽ, lên án những kẻ hiếu chiến trong chính quyền Mỹ.
Để đưa niềm tin, chân lý tới được với cán bộ, chiến sĩ, đồng bào cả nước và những người yêu chuộng hòa bình khắp năm châu, đội ngũ những người làm công tác tuyên giáo đã luôn kiên định lập trường cách mạng, thấm sâu Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mưu trí, sáng tạo, quả cảm như những chiến binh sẵn sàng xả thân cho nghiệp lớn của dân tộc. Họ đã xông pha trong lửa đạn, quay được những thước phim phản ánh chân xác khoảnh khắc bất tử của lịch sử, sáng tác những bài hát, bài thơ, trang văn mang đậm chất sử thi thời đại Hồ Chí Minh. Có cả ngàn chiến sĩ của ngành Tuyên giáo đã bị thương và hy sinh anh dũng ở chiến trường Nam Bộ khốc liệt và chiến trường Liên khu 5 khói lửa. Ngành Tuyên giáo thực sự là một phương diện quân đặc biệt trên mặt trận tư tưởng của Đảng, truyền tải được tinh thần bất tử của Di chúc đến với lòng dân.
Với Đại thắng mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch lịch sử mang tên Người toàn thắng vào ngày 30-4-1975, điều mong muốn thiêng liêng nhất trong Di chúc của Hồ Chí Minh đã trở thành hiện thực; trong đó có đóng góp không nhỏ của ngành Tuyên giáo.
2. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, ngành Tuyên giáo tiếp tục tham mưu với Đảng nhiều chủ trương, chính sách khắc phục hậu quả chiến tranh ở hai miền Nam - Bắc; chăm lo sức khỏe Nhân dân, giáo dục, đào tạo con người mới, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội và bước vào công cuộc đổi mới diệu kỳ, góp phần thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”
Tiên đoán của Hồ Chí Minh trong Di chúc đã trở thành sự thật một cách vững chắc, đất nước ta sạch bóng quân xâm lăng, đồng bào hai miền Nam - Bắc là cây một cội, là anh em một nhà, cùng hướng lòng thành kính, nhớ thương và biết ơn vô hạn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy ngày thống nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh không còn nữa, Người không thể thực hiện ước nguyện được vào thăm đồng bào miền Nam, nhưng với vai trò của ngành Tuyên giáo, triệu triệu con tim Việt Nam đồng thanh vang lên những lời ngợi ca “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”; đó là một động lực tinh thần cho dân tộc ta đủ sức mạnh vượt qua khó khăn, thử thách phía trước. Trong bối cảnh đó, sứ mệnh của ngành Tuyên giáo là phải tiếp tục thực hiện sâu sắc hơn, toàn diện hơn Di chúc của Người: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”(2).
Ngành Tuyên giáo đã tích cực tham gia vào tất cả các lĩnh vực từ tuyên truyền tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội về việc sớm tiến hành bầu cử Quốc hội thống nhất, cải tạo kinh tế - xã hội, xây dựng nền giáo dục dân chủ, xây dựng nền văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc, hiện đại, bài trừ văn hóa độc hại do chế độ cũ để lại. Ngành Tuyên giáo đã kịp thời tham mưu Trung ương Đảng ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị liên quan đến các lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, khoa giáo, đó là cơ sở chính trị để mau chóng đưa hoạt động xã hội của miền Nam chuyển động theo hướng cách mạng và cùng cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Công tác tuyên truyền, giáo dục tập trung phổ biến, giáo dục chủ nghĩa yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa quốc tế vô sản, tuyên truyền về ý nghĩa to lớn có tính bước ngoặt lịch sử của dân tộc, khẳng định cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thắng lợi là tất yếu, nhờ có sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mặt khác, để thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, ngành Tuyên giáo cũng đã làm tốt công tác tuyên truyền, đưa chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước đến với đồng bào các vùng mới giải phóng, đập tan những luận điệu chiến tranh tâm lý của các thế lực phản động, kêu gọi quần chúng đoàn kết, hăng hái sản xuất, ổn định đời sống, bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng chính quyền và các đoàn thể cách mạng ở địa phương.
Sự kiện mang dấu mốc quan trọng nhất trong năm đầu sau ngày giải phóng miền Nam là cuộc tổng tuyển cử trên cả nước để bầu Quốc hội Việt Nam thống nhất. Ngành Tuyên giáo đã chỉ đạo, định hướng và tổ chức nhiều hình thức tuyên truyền, cổ động sát hợp với thực tế, kết hợp tuyên truyền trực quan với tuyên truyền trên báo, đài, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia bỏ phiếu, thực hiện quyền dân chủ thiêng liêng của người dân nước Việt Nam độc lập, thống nhất; đồng thời kiên quyết đấu tranh chống âm mưu phản loạn, chống phá bầu cử của các thế lực phản động. Nhờ vậy, cuộc bầu cử Quốc hội ngày 25-4-1976 đã giành thắng lợi. Kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khóa II (đầu tháng 7-1976) đã quyết định những vấn đề hệ trọng, bảo đảm cơ sở pháp lý cho tính thống nhất tổng thể của nước Việt Nam.
Trên mặt trận văn hóa, ngành Tuyên giáo đã tham mưu để Ban Chấp hành Trung ương ban hành Nghị quyết số 247-NQ/TW, ngày 29-9-1975, trong đó chỉ rõ: “Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, phát huy tinh thần tự hào dân tộc, tinh thần tự lực, tự cường, vạch trần chủ nghĩa quốc gia giả hiệu, chống hệ tư tưởng chính trị phản động và tư tưởng đồi trụy; chống mê tín dị đoan, hủ tục”. Tiếp đó, tháng 4-1977, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 08-CT/TW đề ra những phương hướng lớn của công tác văn hóa, văn nghệ trong giai đoạn cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Chỉ thị nhấn mạnh việc quán triệt các quan điểm của Đảng về văn hóa là: Văn hóa, văn nghệ phải gắn chặt với nhiệm vụ cách mạng và đời sống nhân dân, mọi hoạt động văn hóa phải hướng vào nhiệm vụ trung tâm xây dựng con người xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Xây dựng nền văn hóa mới có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, nền văn hóa có tính đảng và tính nhân dân sâu sắc trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vừa kế thừa có sáng tạo và kết hợp hài hòa tinh hoa văn hóa, có phong cách riêng của các dân tộc anh em trong đại gia đình Việt Nam, vừa tiếp thu có chọn lọc những thành quả của văn minh loài người... Đấu tranh quét sạch ảnh hưởng của văn hóa thực dân, phong kiến, tư sản và những nhân tố lạc hậu trong xã hội. Đó là sự thống nhất những quan điểm cơ bản được Đảng đề ra từ Đề cương về văn hóa Việt Nam (năm 1943), là sự cụ thể hóa tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa được nêu trong Di chúc và nhiều trước tác của Người.
Từ những tiền đề của Đảng, trong tiến trình hơn 30 năm đổi mới đất nước, ngành Tuyên giáo tiếp tục tham mưu để Trung ương Đảng lãnh đạo, chỉ đạo công tác văn hóa, văn nghệ theo đúng định hướng “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI là chìa khóa mở ra hướng đi đúng, góp phần xây dựng nền tảng tinh thần dân tộc, hình thành một trong những trụ cột xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Vào cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, do những sai lầm về chính trị, chủ quan, mất cảnh giác trước chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực phản động quốc tế, nên công cuộc cải tổ của Liên Xô đổ vỡ, Đảng Cộng sản Liên Xô do V.I. Lênin sáng lập đã mất vị thế cầm quyền, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu bị sụp đổ, đẩy hệ thống xã hội chủ nghĩa trên phạm vi thế giới lâm vào khủng hoảng chưa từng có kể từ khi hệ thống này hình thành. Việt Nam là một trong những nước học tập, vận dụng mô hình chủ nghĩa xã hội của Liên Xô, nên chịu ảnh hưởng, tác động rất sâu sắc. Bên cạnh đó, do chính sách cấm vận kinh tế, đóng băng ngoại giao của Mỹ và đồng minh, không còn viện trợ của nước ngoài, hơn nữa lại xảy ra chiến tranh bảo vệ chủ quyền biên giới Tổ quốc ở Tây Nam và phía Bắc, nên đất nước bị đặt trong tình thế hiểm nguy chẳng kém gì so với sau thắng lợi Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trong bối cảnh đó, ngành Tuyên giáo phải đảm đương sứ mệnh lớn lao là làm cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân tiếp tục trụ vững trong biến động chính trị của thời đại, kiên định mục tiêu cách mạng mà Đảng, Bác Hồ đã lựa chọn; đồng thời phải đưa được những định hướng chiến lược của Đảng về sự nghiệp đổi mới đến với cán bộ, đảng viên và Nhân dân.
Ở vào thời điểm có tính nhạy cảm chính trị và bước ngoặt lịch sử, ngành Tuyên giáo đã quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, bám sát yêu cầu thực tiễn, chủ động, sáng tạo, không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả tham mưu, tiên phong trên mặt trận tư tưởng của Đảng, góp phần quan trọng vào việc giáo dục toàn Đảng, toàn dân tin tưởng vào công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, nhất quán về chính trị và tư tưởng, xác định phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, xây dựng văn hóa là nền tảng tinh thần của dân tộc; quán triệt những nguyên tắc đổi mới, đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái, đồng thời tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ những quan điểm lớn của Đảng chỉ đạo về kinh tế, khẳng định kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự điều hành, quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là chiến lược lâu dài, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò then chốt, kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng cho phát triển kinh tế đất nước.
Đổi mới và hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu, nhận thức sâu sắc điều đó, ngành Tuyên giáo đã quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh “dĩ bất biến ứng vạn biến” để tham mưu nhiều chủ trương, đường lối đổi mới đối ngoại của Đảng cho phù hợp với bối cảnh hậu “chiến tranh lạnh”, đồng thời chỉ đạo, định hướng tuyên truyền đối ngoại, ngày càng làm sâu sắc thêm đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, Việt Nam muốn làm bạn, là đối tác tin cậy với tất cả các nước, dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, hợp tác cùng có lợi.
Một trong những thành công rất đáng ghi nhận đối với ngành Tuyên giáo là tuyên truyền, giáo dục, vận động để xóa đi sự hận thù dân tộc giữa một bộ phận người Việt Nam lưu vong ở nước ngoài, từng sống và làm việc cho chế độ ngụy quyền Sài Gòn, dần có được sự hòa hợp dân tộc, hướng về cội nguồn, trở về tham gia các hoạt động hữu ích cho quê hương, cộng đồng; đồng thời góp phần phá băng chính sách “cấm vận kinh tế” của Mỹ và một số nước khác.
3. Ngành Tuyên giáo hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tham mưu xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và đạo đức, đấu tranh bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo các giá trị lý luận, tinh thần và triết lý trong tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa
Kiên định lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, ngành Tuyên giáo đã không ngừng đổi mới, sáng tạo, nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục lý luận chính trị, bổ sung, phát triển, làm giàu lý luận cách mạng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam; đồng thời coi trọng việc giáo dục, giác ngộ, bồi dưỡng đạo đức cách mạng, hình thành thế giới quan, nhân sinh quan cộng sản chủ nghĩa cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, nhất là chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ xứng đáng là “thế hệ cách mạng cho đời sau”, là người kế tục trung thành sự nghiệp cách mạng của cha ông. Qua đó, giữ vững niềm tin cách mạng của Nhân dân đối với Đảng, bồi đắp chủ nghĩa yêu nước, thôi thúc con cháu Bác Hồ đem hết sức mình tiếp tục phấn đấu thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa cao đẹp mà Người đã dày công gieo trồng, giữ vững độc lập dân tộc, đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho đồng bào.
Ngành Tuyên giáo luôn kiên định lập trường cách mạng, đồng thời làm giàu thêm kho báu lý luận cách mạng phù hợp với hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam, cập nhật kiến thức của thời đại, bảo đảm sự thống nhất về chính trị, tư tưởng trong toàn Đảng, toàn xã hội trước sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu; uốn nắn những tư tưởng, nhận thức lệch lạc, quan điểm mơ hồ, dao động về tư tưởng chính trị, giảm sút niềm tin vào Đảng và chủ nghĩa xã hội, cổ vũ cán bộ, đảng viên gương mẫu, nâng cao đạo đức cách mạng theo tấm gương đạo đức Bác Hồ: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đồng thời đấu tranh quyết liệt với chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, phòng ngừa “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Nhận thức sâu sắc về vai trò lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng đối với cách mạng Việt Nam, coi đó là nhân tố tiên quyết bảo đảm mọi thắng lợi cho cách mạng nước nhà, ngành Tuyên giáo đã góp phần quan trọng vào công tác xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và đạo đức, làm cho Đảng luôn là hiện thân của những giá trị cao đẹp, từ đó định hướng, cuốn hút quần chúng theo Đảng để đấu tranh, dựng xây đất nước, mang lại tiền đồ tươi sáng cho dân tộc, nâng cao vai trò, uy tín và vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Ngành Tuyên giáo luôn quán triệt nguyên tắc bảo đảm tính đảng trong toàn bộ hoạt động của mình, hiến kế với Đảng nhiều giải pháp hữu hiệu nhằm tạo sự thống nhất cao trong Đảng, sự đồng thuận xã hội đối với mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng luôn có ý thức, trách nhiệm “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(3) tăng cường sức chiến đấu của Đảng, làm hạt nhân cho khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
4. Ngành Tuyên giáo là lực lượng chủ công trong việc tham mưu giúp Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo, chỉ đạo toàn hệ thống chính trị thực hiện học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, góp phần xây dựng Đảng ta “là đạo đức, là văn minh”, là biểu tượng văn hóa chính trị trên vị thế cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam
Ngay sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, tại lễ truy điệu Người, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thay mặt toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã thề trước anh linh Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Vĩnh biệt Người, chúng ta thề:
Suốt đời học tập đạo đức, tác phong của Người, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh, rèn luyện mình thành những chiến sĩ trung thành với Đảng, với dân, xứng đáng là đồng chí, là học trò của HỒ CHỦ TỊCH. Noi gương Người, toàn thể Nhân dân ta, thanh niên ta nguyện ra sức trau dồi mình thành những con người mới, làm chủ đất nước, làm chủ xã hội mới, mang lá cờ bách chiến bách thắng của HỒ CHỦ TỊCH tới đích cuối cùng”.(4).
Những năm sau đó, với khẩu hiệu “Sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại” đã chứa đựng nội dung học tập và làm theo tấm gương đạo đức cách mạng của Bác Hồ, trở thành việc làm tự giác, thường xuyên cho những ai thực sự tôn kính, biết ơn Bác Hồ.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (tháng 3-1982) đã xác định: Đảng phải đặc biệt coi trọng việc tổ chức học tập một cách có hệ thống tư tưởng, đạo đức, tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn Đảng. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (tháng 6-1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội xác định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Ngày 27-3-2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số 23-CT/TW về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới, trong đó có mục đích là: “Tạo ra phong trào rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng theo gương Bác Hồ vĩ đại, đẩy lùi sự suy thoái đạo đức, lối sống”. Ngày 7-11-2006, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, với mục đích được đặt trọng tâm vào tu dưỡng, rèn luyện đạo đức theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn xã hội, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, thanh niên, học sinh...; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đưa việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, lâu dài của cán bộ, đảng viên, của các chi bộ, tổ chức đảng và các tầng lớp nhân dân. Ngày 14-5-2011, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 03-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, với mục đích tiếp tục được xác định là: tạo chuyển biến mạnh mẽ và sâu rộng hơn nữa về ý thức tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội thực dụng, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn tham nhũng, tiêu cực. Ngày 15-5-2016, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi đó là công việc thường xuyên của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội, địa phương, đơn vị, nhằm góp phần xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII cùng với Chỉ thị số 05-CT/TW thực sự là định hướng chiến lược cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và gìn giữ biểu tượng cách mạng cao cả của Đảng trong lòng Nhân dân.
Nhìn lại quá trình tham mưu việc thực hiện học tập và làm theo tấm gương đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh, có thể khẳng định rằng, ngành Tuyên giáo đã luôn luôn tìm tòi, sáng tạo, định hướng, khích lệ những cách làm tốt, phát hiện những điển hình tiêu biểu trong học tập và làm theo Bác, từ đó góp phần xây dựng xã hội mới.
Sự trường tồn của dân tộc Việt Nam có được trước hết là nhờ vào ý thức tự tôn dân tộc, sự hun đúc truyền thống yêu nước thương nòi được gắn với tình cảm quốc tế trong sáng mà Hồ Chí Minh là một hình mẫu không thể phủ nhận. Công tác tư tưởng của Đảng đã được ngành Tuyên giáo thực hiện thành công trên nhiều phương diện, trong đó quan trọng nhất là làm cho mỗi cán bộ, đảng viên và Nhân dân ý thức đúng, hành động đúng theo lý tưởng cách mạng mà Người và các thế hệ tiền bối cách mạng đã trao truyền, mỗi cán bộ, đảng viên biết học tập đạo đức, tác phong của Người, bồi dưỡng phẩm chất cách mạng, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh, rèn luyện mình thành những chiến sĩ trung thành với Đảng, với Nhân dân, ra sức trau dồi mình thành những con người mới, làm chủ đất nước, làm chủ xã hội mới, mang lá cờ bách chiến bách thắng của Chủ tịch Hồ Chí Minh tới đích cuối cùng.
5. Thấm nhuần tư tưởng “Quan sơn muôn dặm một nhà” của Hồ Chí Minh, ngành Tuyên giáo đã làm tốt công tác thông tin đối ngoại và hợp tác quốc tế, góp phần đáng kể vào công tác đối ngoại Đảng, tăng cường củng cố tình đoàn kết hữu nghị trong sáng giữa Việt Nam và bạn bè quốc tế
Nhờ quá trình tham gia hoạt động sôi nổi trong phong trào cộng sản quốc tế, nên Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã từ chủ nghĩa yêu nước chân chính mà hình thành thế giới quan và nhân sinh quan cộng sản. Chính Người đã gieo mầm và vun đắp cho những mối tình hữu nghị trong sáng, cao đẹp giữa Nhân dân Việt Nam với Nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, trước hết là với các nước Đông Dương. Trước tình hình xảy ra những bất đồng giữa các đảng anh em, Người cảm thấy xót đau, nỗi xót đau của một chiến sĩ quốc tế cộng sản từng trải nghiệm những năm tháng sôi động nhất của cách mạng thế giới. Nỗi đau ấy được Người thổ lộ trong Di chúc: “Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tôi càng đau lòng bấy nhiêu vì sự bất hòa hiện nay giữa các đảng anh em!
Tôi mong rằng Đảng ta sẽ ra sức hoạt động, góp phần đắc lực vào việc khôi phục lại khối đoàn kết giữa các đảng anh em trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản, có lý, có tình”.(5).
Noi gương và thấm sâu lời chỉ dạy của Hồ Chí Minh, trong mọi hoàn cảnh, thời chiến cũng như thời bình, ngành Tuyên giáo đã chú trọng công tác đối ngoại tư tưởng chính trị, giúp cho Đảng, Nhân dân ta gìn giữ và phát huy mối quan hệ quốc tế trong sáng, cách mạng của Hồ Chí Minh, hết lòng góp sức vào việc khôi phục và tăng cường sự đoàn kết nhất trí trong hệ thống xã hội chủ nghĩa và giữa các đảng anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản; thắt chặt tình đoàn kết hữu nghị giữa các dân tộc Đông Dương; ra sức ủng hộ phong trào cách mạng của Nhân dân các nước, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì tiến bộ xã hội, hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội trên thế giới.
Từ một nước là thuộc địa của thực dân Pháp, bị coi là phần đất ngoài lãnh thổ của nước Pháp chính quốc, bị mất tên trên bản đồ thế giới, đến nay, Việt Nam đã có mối quan hệ ngoại giao với trên 170 quốc gia và vùng lãnh thổ, có 28 nước là đối tác chiến lược và đối tác toàn diện, trong đó có tất cả các nước lớn và 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Sự kiện gần đây nhất, vào ngày 7-6-2019, Việt Nam được bầu với số phiếu gần như tuyệt đối (191/192 phiếu) vào vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, đây thực sự là dấu mốc lớn trong tiến trình Việt Nam thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hội nhập quốc tế.
Ngành Tuyên giáo đã chỉ đạo, hướng dẫn tuyên truyền kịp thời, đúng định hướng của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với những vấn đề, sự kiện quan trọng của quốc tế, khu vực, qua đó làm nổi bật quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về cách thức giải quyết các vấn đề “nóng” của thế giới, như: lên án và chống chủ nghĩa khủng bố, chống sự phân biệt sắc tộc, chống sự kỳ thị tôn giáo, chống chủ nghĩa cường quyền nước lớn, bảo vệ quyền con người, tôn trọng độc lập, chủ quyền và quyền tự quyết của các dân tộc, bảo vệ môi trường, xây dựng và củng cố lòng tin chiến lược, sự tôn trọng luật pháp quốc tế.
Một trong những dấu ấn nổi bật mà ngành Tuyên giáo có công đóng góp là sự tham mưu đúng và trúng đối với việc kỷ niệm trọng thể một số sự kiện quốc tế quan trọng, có tính nhạy cảm chính trị (mới đây là Kỷ niệm 170 năm ra đời tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, 100 năm Cách mạng Tháng Mười Nga); qua đó thể hiện rõ lập trường kiên định của Đảng ta đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, về sự thủy chung cách mạng của Việt Nam đối với Liên Xô trước đây, đối với nước Nga hiện nay.
Với vai trò tham mưu cấp chiến lược ở tuyến cao nhất, Ban Tuyên giáo Trung ương đã hoàn thành nhiều nhiệm vụ quan trọng được Bộ Chính trị, Ban Bí thư giao về chuẩn bị nội dung, chủ đề trong các cuộc hội thảo quốc tế trao đổi, học hỏi kinh nghiệm về công tác lý luận, công tác tư tưởng chính trị giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với Đảng Cộng sản Trung Quốc, với Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, với Đảng Cộng sản Cuba; đồng thời cũng có những nghiên cứu khoa học về xu hướng phong trào công nhân quốc tế.
II. ĐỊNH HƯỚNG CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO TIẾP TỤC THỰC HIỆN DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH, GÓP PHẦN QUAN TRỌNG VÀO THỰC HIỆN MỤC TIÊU CHIẾN LƯỢC 100 NĂM THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ 100 NĂM LẬP NƯỚC
1. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(6). Trên tiền đề những thành tựu to lớn qua 50 năm thực hiện Di chúc của Người, chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng, dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, Việt Nam đã và đang hướng đến thành công mục tiêu chiến lược xây dựng mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa phù hợp với xu hướng thời đại và sát hợp điều kiện của Việt Nam, đáp ứng lòng mong ước của đồng bào ta: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Để thiết thực hướng tới kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và 100 năm lập nước, ngành Tuyên giáo phải quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo đảm tính đảng trong công tác tư tưởng, tham mưu đúng, trúng, kịp thời, hiệu quả thiết thực với Đảng những vấn đề có tính chiến lược trên mặt trận tư tưởng; tuyên truyền, giác ngộ, cổ vũ thi đua yêu nước, tạo động lực tinh thần để dân tộc Việt Nam sớm sánh vai với các cường quốc năm châu, đóng góp đáng kể vào sự tiến bộ chung của nhân loại.
2. Quán triệt Nghị quyết số 37-NQ/TW, ngày 9-10-2014 của Bộ Chính trị về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030 và Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, ngành Tuyên giáo hết sức coi trọng việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, vận dụng sáng tạo, bổ sung, phát triển, làm giàu các giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam; đồng thời tăng cường tính sắc bén trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, ngăn chặn, phòng ngừa nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
3. Kiên trì, sáng tạo đưa việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành tự giác, thường xuyên trong mỗi cán bộ, đảng viên, làm gương cho quần chúng noi theo; coi đó là phương cách tối ưu để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Ngành Tuyên giáo phải định hướng tiếp tục tuyên truyền, giáo dục làm sâu sắc thêm lòng biết ơn vô bờ bến của Nhân dân đối với Bác Hồ muôn vàn kính yêu. Từ đó, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng thời đại Hồ Chí Minh, thi đua yêu nước, phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam cường thịnh, văn minh, hiện đại, hội nhập quốc tế thành công, ngày càng thể hiện vai trò, vị thế và trách nhiệm bảo vệ hòa bình thế giới.
4. Nhân tổ chức các hoạt động đầy ý nghĩa lịch sử, chính trị, văn hóa trong khuôn khổ 50 năm ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh, 50 năm thực hiện Di chúc của Người, ngành Tuyên giáo cần thể hiện rõ vai trò là lực lượng nòng cốt trong công tác tuyên truyền, cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Tham mưu Ban Bí thư sơ kết 3 năm, tiến tới đánh giá cả nhiệm kỳ Đại hội XII thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, làm cơ sở quan trọng để đề xuất với Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các nội dung, giải pháp có tính đột phá, tiếp tục đưa việc học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh bước sang một giai đoạn mới, ngày càng thấm sâu vào cuộc sống, có tính động lực của ý thức chính trị và tình cảm sâu nặng với Đảng, với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong các dự thảo văn kiện trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, cần bám sát tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là Di chúc của Người để soi rọi, thẳng thắn chỉ ra những thành công và chưa thành công trong thực hiện Di chúc, đề xuất bổ sung những điểm mới vào nội dung, giải pháp cho sát hợp thực tiễn cách mạng hiện nay.
5. Quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại cuộc làm việc với Ban Tuyên giáo Trung ương (ngày 1-8-2018), tiếp tục đổi mới sâu sắc, toàn diện các lĩnh vực công tác tuyên giáo theo phương châm kịp thời, sắc bén, thiết thực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu mới của cách mạng Việt Nam, góp phần gìn giữ môi trường ổn định, hòa bình cho đất nước phát triển nhanh, bền vững và hội nhập quốc tế thành công. Quan tâm chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, kỹ năng, trình độ, năng lực tham mưu của đội ngũ cán bộ tuyên giáo các cấp, hướng tới xây dựng đội ngũ cán bộ tuyên giáo tinh thông nghề nghiệp, nhạy bén chính trị, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhiệt huyết, trách nhiệm, tiên phong trên mặt trận tư tưởng, hoàn thành sứ mệnh của toàn ngành Tuyên giáo trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, vì sự trường tồn của chế độ, của dân tộc.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Lãnh đạo quan trọng nhất là lãnh đạo tư tưởng, phải hiểu tư tưởng của mỗi cán bộ để giúp đỡ thiết thực trong công tác; vì tư tưởng thông suốt thì làm tốt, tư tưởng nhùng nhằng thì không làm được việc"(7).
Mỗi giai đoạn lịch sử cách mạng cụ thể, công tác tư tưởng mà ngành Tuyên giáo là lực lượng nòng cốt luôn phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thách thức, nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mà các thế lực thù địch không ngừng thúc đẩy âm mưu “diễn biến hòa bình”, lợi dụng internet, mạng xã hội để kích động, gây mất ổn định xã hội, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng. Vì vậy, ngành Tuyên giáo càng phải hết sức cảnh giác, tự đổi mới để mãi là “thanh bảo kiếm” trên mặt trận tư tưởng của Đảng.
Phát huy truyền thống vẻ vang gần 90 năm đồng hành cùng dân tộc, ngành Tuyên giáo sẽ tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tham mưu chiến lược, góp phần nhiều hơn nữa vào việc bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh thành dòng chảy chủ đạo trong đời sống chính trị của đất nước; tạo sự thống nhất cao trong Đảng, sự đồng thuận xã hội để xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới như di nguyện của Bác Hồ kính yêu./.
________________________________
(1) (2) (3) (4) (5) (6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t. 15, tr. 621, 622, 622, 629-630, 623, 624.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 309.